MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN LÀ KHÔNG THỂ CHIA CẮT
Nobita091275 (st)
Trong giai đoạn hiện nay, người ta lại thấy một
chiến dịch khá rầm rộ được các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài hợp sức
tiến công vào Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Những luận điệu đòi
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; những lý thuyết “một đảng cầm quyền thì
không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị, trái với nguyên tắc nhà
nước pháp quyền”, yêu sách Đảng ta từ bỏ quyền lãnh đạo, coi đó là “vấn đề căn
bản”, “then chốt” hợp lòng dân, bảo đảm dân chủ; vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam
chiếm quyền của dân, “độc đoán”, “đảng trị", “thực hiện sự chuyên chính
của một đảng”, “sự thống trị quan liêu của giới thượng lưu”,... được chúng tung
trên khắp các phương tiện thông tin, truyền thông nhằm làm giảm lòng tin của
dân đối với Đảng, đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng và Nhà nước với nhân
dân.
Lợi dụng việc chúng ta công khai tự phê bình, đấu
tranh chống tệ nạn tham nhũng, quan liêu và tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, khắc phục “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, những thế lực này ra sức công kích, xuyên
tạc, bôi nhọ, nói xấu Đảng; cố tình thổi phồng khuyết điểm, sai lầm của một số
cá nhân đảng viên. Họ còn hô hào: trách nhiệm của những người yêu nước là phải
cùng toàn dân “nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới
cho sự phát triển và bảo vệ đất nước”...
Những lời lẽ, giọng điệu trên cho thấy rõ thực
chất mục tiêu số một của các thế lực thù địch là nhằm chia cắt mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, làm cho dân xa rời và đối lập với Đảng, thủ tiêu
nguồn sức mạnh vô địch và sức sống của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng,
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Thực tiễn xây dựng, trưởng thành và cầm quyền của
Đảng ta cho thấy, chính lịch sử dân tộc và nhân dân ta đã lựa chọn Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc trên con đường đi tới độc
lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đảng đã vì dân mà ra đời, lãnh đạo cách mạng, đưa
nhân dân thoát khỏi nô lệ, lầm than, vươn lên làm chủ, xây dựng cuộc sống mới,
vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhân dân Việt
Nam đã lựa chọn và trao cho Đảng Cộng sản Việt Nam quyền duy nhất lãnh đạo, duy
nhất cầm quyền ở nước ta. Và nhân dân ta đã một lòng theo Đảng, đoàn kết dưới
ngọn cờ của Đảng, làm nên những kỳ tích vĩ đại, những thành tựu mang tầm vóc
lịch sử. Đó là bản chất và nội dung cốt lõi mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và
nhân dân ta. Mối quan hệ mật thiết đó đã, đang và vẫn thể hiện sinh động trong
thực tiễn, là cội nguồn sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, mà không thế
lực nào có thể chia cắt được.
Mọi người Việt Nam đều biết, vai trò lịch sử của
Đảng ta đối với vận mệnh và tương lai của dân tộc, mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng và nhân dân là khách quan, do chính lịch sử dân tộc Việt Nam và khát vọng
của nhân dân ta quy định; và do chính bản chất cách mạng, tính tiền phong của
Đảng mới có được. Vai trò và mối quan hệ đó đã được khẳng định trong thực tiễn
lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam suốt hơn tám thập niên qua, không ai
có thể tranh giành, bác bỏ hay phủ nhận. Vậy nên, không thể vì sự hạn chế,
khuyết điểm nào đó, vì những khó khăn của đất nước trên con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội mà vội vã phán xét rằng Đảng đã “hết vai trò lịch sử”, “không còn
đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”, rằng quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân
không còn nữa, nhân dân không cần phải tin và theo Đảng, rồi kích động, hô hào
nhân dân chống lại Đảng và chống lại chế độ!
Thực tiễn cho thấy, những thành tựu của sự nghiệp
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi người dân Việt Nam đều cảm nhận được rất
rõ, được thực sự thụ hưởng cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, được thế giới đánh
giá cao và tin tưởng vào sự phát triển của Việt Nam. Mọi đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý
kiến của nhân dân. Mọi người dân đều trực tiếp hay gián tiếp đề đạt nguyện vọng
và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của dân ngày càng được mở rộng và hoạt động hiệu quả. Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong xã
hội; là phương châm hành động của người dân trong xây dựng hệ thống chính trị,
xây dựng Đảng; là yêu cầu ứng xử của cán bộ, đảng viên trong tiếp xúc, quan hệ
với dân và chăm lo đến dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền
lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ
với nhau; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và
nâng cao. Đảng đã thực sự “gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” đúng
như Hiến pháp Việt Nam đã hiến định.
Đó là thực tế, là hiện thực không thể bàn cãi.
Hiện thực đó bác bỏ mọi sự chống phá, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân. Từ bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thực hiện đa đảng chắc chắn sẽ không phải là vì lợi ích của nhân dân, mà điều
tệ hại sẽ đến là: đất nước mất ổn định, kinh tế đổ vỡ, xã hội hỗn loạn, rơi vào
thảm họa như đã từng xảy ra ở một số nước, mà nhân dân chỉ là cái cớ cho sự
tranh giành quyền lực giữa các phe phái.
Những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta trong quá
trình xây dựng đất nước là có thực, nhưng đó là những hạn chế và khuyết điểm
trên con đường phát triển. Lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của một số cấp
ủy đảng và chính quyền, của một số cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ
trương, chính sách để nói xấu, công kích, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân không phải là hành động của những người thực sự “vì dân”, “vì nước”,
vì sự phát triển và phồn vinh của đất nước, mà là hành động của những kẻ “đục
nước béo cò”. Hành động đó chỉ có thể làm tổn hại đến sự ổn định chính trị - xã
hội, đi ngược lại nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Thái độ và hành động đúng
đắn ở đây là phải ghé vai cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết
một lòng thành một khối vững chắc, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, khắc phục khó khăn, yếu kém, khuyết điểm, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, nhằm
chấn hưng đất nước.
Những thành tựu có được ngày hôm nay là sự cố gắng
to lớn, rất đáng tự hào của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, được bạn bè
quốc tế ngưỡng mộ. Tuy nhiên, hiện nay “chúng ta vẫn luôn đau đáu vì nền kinh
tế nước ta còn tụt hậu, cuộc sống của đồng bào ta ở nhiều vùng, nhiều đối tượng
còn rất khó khăn; vẫn còn tệ tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thói quan
liêu hống hách cửa quyền với nhân dân, tình trạng trù dập, ức hiếp người dân
lương thiện, gây ra bao nỗi oán thán, bất bình trong nhân dân“. Chúng ta không
phủ nhận những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình đi lên. Đảng ta đã nhận rõ
vấn đề và kiên quyết sửa chữa, đấu tranh khắc phục.
Trong tình hình mới, chúng ta cần phải dành công
sức nhiều hơn nữa, tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền
thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng; xây
dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. “Phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng Đảng, nhất là tiếp tục thực hiện kiên trì, quyết liệt hơn Nghị quyết Trung
ương 4 về xây dựng Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức trong Đảng và trong xã hội; giữ vững, kiên định
bản chất cách mạng và vai trò tiên phong gương mẫu của Đảng, của đội ngũ cán
bộ, đảng viên”.
Củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân là yêu cầu và nội dung cơ bản làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại
của các thế lực thù địch. Điều này đòi hỏi chúng ta phải thực hiện chủ trương,
chính sách hợp lòng dân, “hết sức làm” những việc gì có lợi cho dân; “hết sức
tránh” những việc gì có hại đối với dân. Chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân. Vấn đề quan trọng đặc biệt hiện nay là chúng ta phải
kiên quyết khắc phục sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là một vấn
đề nhức nhối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, làm nhân dân bất
bình, lo lắng và suy giảm niềm tin đối với Đảng. Cần thấy rằng, uy tín của Đảng
ra sao, lòng tin của dân đối với Đảng đến đâu, mối quan hệ Đảng với nhân dân
mật thiết, bền chặt như thế nào phụ thuộc quyết định vào chính sự trong sạch,
vững mạnh của Đảng, vào phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ, đảng viên.
Củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và xây
dựng Đảng không phải là câu khẩu hiệu mà là hành động thực tế. Đó không phải là
sự nghiệp của riêng Đảng mà là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Sức mạnh của nhân dân là to lớn, tai mắt của nhân dân là hết sức khách
quan. Cần phát huy vai trò và tinh thần làm chủ của nhân dân và các tổ chức
quần chúng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở và giám
sát hoạt động của cán bộ, đảng viên, trong đấu tranh chống tham nhũng, suy
thoái. Đó là sự biểu hiện sinh động quyền làm chủ của nhân dân, lòng tin tưởng,
tình cảm và quyết tâm của nhân dân trong xây dựng, bảo vệ Đảng mến yêu của
mình, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, đó là sự thể hiện sâu sắc ý Đảng, lòng dân, góp phần quan trọng
làm chuyển biến phương thức lãnh đạo, công tác điều hành, quản lý và lề lối làm
việc của các cấp uỷ đảng, chính quyền; là phương thức hữu hiệu để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ ở cơ sở. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” là biểu hiện cụ thể quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống ở cơ sở”,
phải được thể hiện tốt hơn trong đời sống hiện thực.
Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận đầy đủ và thấu
đáo hơn vấn đề Đảng lãnh đạo bằng “hành động gương mẫu của đảng viên” và tầm
quan trọng đặc biệt của “hành động gương mẫu của đảng viên" đối với việc
củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự vững chắc của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân phụ thuộc quyết định
vào bản thân Đảng, vào sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và sự gương mẫu của
mọi đảng viên. Đảng viên không gương mẫu thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật, rèn luyện đạo đức, lối sống, thì chủ trương, chính sách của Đảng khó có
thể trở thành hiện thực, thậm chí bị thực hiện sai, nhân dân thiếu tin tưởng
vào chủ trương, chính sách, công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động của
Đảng sẽ mất đi ý nghĩa thực tiễn, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân
sẽ bị suy giảm, bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động, chống phá.
Tính gương mẫu đòi hỏi người đảng viên phải gương
mẫu toàn diện, không chỉ về tư tưởng chính trị mà còn phải gương mẫu về hành
động, về đạo đức, lối sống; không chỉ gương mẫu trong lời nói mà còn cả trong
việc làm trên mọi lĩnh vực, trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi, cả trong tổ
chức, xã hội và đối với gia đình. Đảng viên không có uy tín với xóm làng, khối
phố, khu dân cư thì không thể nói là gương mẫu. Cũng không thể nói là gương
mẫu, nếu người đảng viên đó chỉ thuyết giáo và yêu cầu mọi người hãy chấp hành
pháp luật, còn mình thì “đứng ngoài cuộc”, thậm chí lại để cho vợ con lợi dụng,
làm những việc trái pháp luật, làm giàu phi pháp, bất lương, bất chính.
Nhân dân ta luôn tin tưởng vào Đảng, bao giờ cũng
mong muốn Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, là lương tâm, trí tuệ đại diện
cho dân tộc; thực sự là “đạo đức và văn minh”; thật sự xứng đáng là người lãnh
đạo, dẫn dắt đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mọi đảng viên thật sự là tấm gương mẫu mực toàn diện; đảng viên giữ chức vụ
càng cao thì yêu cầu về sự gương mẫu càng lớn. Nhân dân bao giờ cũng nhìn vào
sự gương mẫu của đảng viên, xem đảng viên chấp hành chủ trương, chính sách và
sống như thế nào, nói và làm ra sao, để tin tưởng và noi theo. Vì thế, “Cán bộ,
đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân
dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; thực sự là một tấm
gương về phẩm chất đạo đức, lối sống, phải gương mẫu trong mọi hành động, “Cán
bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân”; phải
“phát huy tính tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân của cán bộ, đảng viên”.
Đây là yêu cầu cơ bản mà chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh và thực hiện tốt trong
tình hình hiện nay nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, giữ gìn và nâng cao uy tín của Đảng
trước nhân dân, làm thất bại mọi sự phá hoại của các thế lực thù địch./.
Nhận xét
Đăng nhận xét