Cuối thế kỷ XIX, sau khi
bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân
hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến.
HT81.PSY33
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm
cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước
theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ
yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan
Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì
thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng
tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác- Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập
một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ
nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình
độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng
sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành
lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô
Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương
Hạc Đính.
Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị
thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó không được chấp nhận, trở về nước, ngày
17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành
lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng được thành
lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung
Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có
ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu
của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có
đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức
cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu DDCSD); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu
(ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống
nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2
năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam
mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết
quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm
đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng
chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền
với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng
ta./.
Bài viết của tác giả một lần nữa không ai có thể phủ nhận công lao trời biển của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Người không chỉ sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, mà còn đưa dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, thực dân, giành độc lập, dân tộc, thống nhất tổ quốc xây dựng CNXH, ngày càng phát triển như ngày nay.
Trả lờiXóa